
NHỮNG VỊ THẦN TRONG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI HOA Ở HỘI AN, VIỆT NAM
Trải qua mấy trăm năm định cư, sinh sống ở Hội An, ngoài việc mưu sinh, phát triển kinh tế, cộng đồng người Hoa nơi đây đã tạo cho mình những sinh hoạt văn hóa tinh thần rất phong phú và đa dạng, trong đó có các sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Qua nhiều năm khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng người Hoa ở Hội An chủ yếu tin theo tín ngưỡng đa thần. Tại những nơi thờ tự chung của cộng đồng, cũng như ở tại gia đình, người Hoa thờ phụng rất nhiều các vị thần khác nhau, trong đó có nhiều vị thần có nguồn gốc từ Nam Trung Hoa như Thiên Hậu, Lục Tánh, Chiêu Ứng… Những vị thần được cộng đồng người Hoa ở Hội An thờ tự trong các địa điểm tâm linh, tín ngưỡng chủ yếu là các vị sau:
Thiên Hậu thánh mẫu
Thiên Hậu còn gọi là Thiên Phi hay Mã Tổ. Ở Hội An, Thiên Hậu được thờ chủ yếu tại các hội quán: Trung Hoa, Phúc Kiến, Quảng Đông và được thờ trong nhiều gia đình người Hoa. Các hội quán có thờ Thiên Hậu của người Hoa ở Hội An được xây dựng theo hình chữ 国 (quốc), gồm nhà tiền giảng (tiền điện), chánh điện, tả vu và hữu vu (còn gọi là nhà Đông và nhà Tây). Nhà tiền giảng gồm 3 gian với nhiều cột gỗ cao to, tường lắp bằng các mảng đá lớn được vận chuyển từ Trung Quốc sang. Chính điện được nối với nhà tiền điện bởi tả vu và hữu vu. Kết cấu bên trong của chánh điện chủ yếu là khung gỗ với hệ thống cột kèo cao to, sơn son tráng lệ. Vì kèo được tạo theo kiểu “chồng rường giả thủ”, chạm trổ tinh xảo, cầu kỳ. Gian giữa rộng lớn là nơi bày khám thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu gọi là Thiên Hậu cung. Trong gian thờ có đặt tượng của thánh mẫu, các nữ thần hầu, phía trước thờ tượng hai thần Thiên lý nhãn (Thần nhìn xa) và Vạn lý nhĩ (Thần nghe xa, còn có tên là Thuận Phong nhĩ). Theo dân gian đây là 2 vị thần, bộ tướng của Thiên Hậu thánh mẫu, một vị nhìn xa và một vị nghe xa có nhiệm vụ giúp Thiên Hậu trong việc cứu nạn trên biển. Ngoài ra, trong hội quán còn thờ mô hình thuyền buồm, đây là mẫu thuyền ngày xưa được người Hoa sử dụng làm phương tiện hàng hải giao thương buôn bán.
Theo sách Đại Thanh hội điển sự lệ, bà Thiên Hậu họ Lâm, tên Mặc Nương, người huyện Bồ Điền, tỉnh Mân (nay là tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc). Nhà họ Lâm nhiều đời làm quan, đến đời cha bà là Duy Ý Công cưới bà Vương Thị đã lâu mà không có con. Sau nhiều lần cầu đảo, mẹ bà thọ thai và sinh bà vào ngày 23 tháng
3 năm Kiến Long triều Tống (960). Lên 13 tuổi bà được một đạo sĩ truyền cho Nguyên trưng bí pháp, năm 16 tuổi được diệu bùa và cảm phép linh thông biến hóa. Từ đó bà hay đuổi tà giúp dân nên dân chúng tôn bà là Linh hiền thông nữ. 13 năm sau, vào tiết trùng cửu (mồng 9 tháng 9 âm lịch), bà lên núi ở đảo My Châu, giữa ban ngày phi thẳng lên trời. Kể từ đó, bà thường hiển linh cứu dân giúp nước, đặc biệt là cứu vớt những tàu thuyền gặp nạn trên biển. Ngoài ra bà còn thu nạp được 2 vị thần là Thiên lý nhãn và Vạn lý nhĩ. Hai vị này thường xuyên nghe nhìn để bẩm báo bà kịp thời cứu nạn. Để tưởng nhớ công đức của bà, các triều đại phong kiến Trung Hoa đều ban sắc phong thờ cúng. Lần sắc phong đầu tiên vào năm Tuyên Hòa thứ 4 triều Tống (1122), bà được phong là Thuận tế phu nhân. Lần sắc phong cuối là vào năm Đạo Quang thứ 19 triều Thanh (1839), bà được gia phong mỹ tự Hộ quốc tý dân diệu linh chiêu ứng hoằng nhân phổ tế thiên thượng thánh mẫu. Các vua triều Nguyễn ở Việt Nam cũng nhiều lần ban sắc cho bà. Năm Minh Mạng năm thứ 7 (1826) bà được sắc phong là Hồng từ bác nghĩa an tế thượng đẳng thần; năm Tự Đức năm thứ 3 (1850) gia phong mỹ tự Hồng từ bác nghĩa an tế phổ trạch gia trang thiên phi thượng đẳng thần.
Từ xưa đến nay, người Hoa ở Hội An tổ chức cúng bà vào hai dịp chính: ngày vía của bà vào ngày 23 tháng 3 âm lịch và ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch hàng năm.
Quan Thánh đế quân
Sách Đào Viên Minh thánh kinh chép rằng vào thời Tam Quốc (220 – 280) ở Trung Quốc có người tên Quan Vũ, tự Vân Trường, từng ứng mộ dẹp giặc Khăn Vàng và đã kết nghĩa đào viên với Lưu Bị và Trương Phi. Ngài là một danh tướng bậc nhất đã có nhiều công lao lớn, phò Hán dẹp Ngô diệt Ngụy, nổi tiếng là người trung nghĩa tiết liệt và đức độ.
Vào đời Hán Hằng Đế, niên hiệu Kiến An năm thứ 24 (219), ngài bị bại trận, mất rồi hiển thánh tại Lâm Thư, núi Ngọc Tuyền. Sau đó, ngài hay hiển linh trừ ma, đuổi tà, giúp nước, cứu đời nên được sắc phong Tam giới phục ma đại đế thần uy viễn chấn thiên tôn Quan Thánh đế quân và được lập miếu thờ ở nhiều nơi. Ở Việt Nam, vào đầu thời Nguyễn cũng cho dựng miếu Quan Công ở các tỉnh và ban sắc phong để thờ cúng. Thần hiệu cao nhất của Quan Thánh được sắc phong là Quan Thánh đế quân hộ quốc tí dân hiển hữu công đức dực bảo trung hưng đại vương tôn thần.
Ở Hội An, Quan Thánh được thờ chủ yếu ở các di tích cộng đồng lớn như: Miếu Quan Công (thường gọi là Chùa Ông), Hội quán Quảng Đông. Ông còn được thờ phổ biến tại các gia đình người Hoa. Bước chân vào những ngôi nhà của người Hoa, điều đầu tiên đập vào mắt là ngay trên gian trung ngôi nhà có đặt một khám thờ lớn, đó chính là khám thờ Quan Thánh đế quân. Quan Thánh là vị nam thần được thờ phụng rộng rãi và được tôn sùng vào bậc nhất trong cộng đồng người Hoa ở Hội An, bởi vì họ cho rằng “Ông” rất linh thiêng, linh ứng. Tín ngưỡng này có nguồn gốc từ rất lâu.
Khám thờ Quan Thánh đế quân hầu hết được sơn son thếp vàng, bên ngoài đều có chạm những câu đối mang nội dung ca tụng lòng trung nghĩa của ngài như: Chí tại Xuân Thu công tại Hán. Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng thiên (Chí tại sách Xuân Thu, lập công lao cho nhà Hán. Trung nghĩa tự nhật nguyệt, nghĩa khí cao bằng trời), hoặc: Tam Quốc anh hùng vô đối thủ. Nhất trường trung liệt hữu hoàn nhân (Thời Tam Quốc không có ai là đối thủ. Trong trường trung liệt ngài là người hoàn hảo nhất).
Bên trong khám thờ thường đặt một bức tranh hay tượng của Quan Thánh, hai bên là bộ tướng Châu Thương và quan thái tử Quan Bình. Nếu nhà nào không có ảnh, tượng thì dùng giấy đỏ viết một bài vị lớn: Hiệp thiên đại đế Quan Thánh đế quân. Vị trí khám thờ thường đặt ở những nơi trang trọng nhất: giữa nhà, cao hơn bàn thờ, khám thờ gia tiên và đại đa số hướng khám quay theo hướng nhà. Người Hoa quan niệm rằng Quan Thánh có tài trừ ma diệt quái nên khám ngài phải quay ra hướng cửa để ngài giám sát không cho tà ma vào quấy phá gia đình. Sau khi hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền, vì hay hiển linh giúp nước cứu đời (hộ quốc tý dân) nên nhiều lần được ban sắc phong thờ tự. Ngoài ra, người Hoa còn cho rằng Quan Thánh là vị thần hộ mạng cho những người đàn ông làm chủ gia đình nên càng cần phải thờ cúng ngài.
Quan Thánh thường được cúng vào các ngày sóc (mồng 1 âm lịch), vọng (ngày rằm) hàng tháng và các ngày lễ tiết trong năm. Đặc biệt, đến ngày “vía Ông” thì cúng càng lớn và sắm nhiều lễ vật hương hoa đến lễ bái tại Miếu Quan Công và Hội quán Quảng Đông.
Phục Ba tướng quân
Theo truyền thuyết Phục Ba tướng quân là vị thần có tài chém sóng trị gió, nên được vua sắc phong Phục Ba tướng quân (tướng chinh phục sóng gió). Theo các tư liệu lịch sử của Trung Hoa cũng như truyền thuyết của dân gian thì ít nhất có 3 vị tướng được phong là Phục Ba tướng quân là Lộ Bác Đức, Mã Viện và Trịnh Thành Công. Tuy nhiên, trong các tư liệu thư tịch, sổ sách cũng như các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng của người Hoa ở Hội An vẫn chưa xác định được Phục Ba tướng quân hiện được người Hoa ở Hội An thờ cúng là vị nào trong 3 vị kể trên.
Ở Hội An, Phục Ba tướng quân được giới thương buôn người phủ Triều Châu phụng thờ tại Hội quán Triều Châu để cầu mong thuận buồm xuôi gió, vượt biển giao thương buôn bán. Hàng năm vào tiết Thượng nguyên (rằm tháng Giêng), Hội quán Triều Châu đều tổ chức lễ Nguyên tiêu, giỗ tổ tiền hiền và cúng Phục Ba tướng quân.
Chiêu Ứng Công
Tại Hội An, các vị Chiêu Ứng được thờ tại Hội quán Quỳnh Phủ của người Hải Nam. Thần tích hiện đang lưu giữ tại Hội quán Quỳnh Phủ ghi chép về 108 vị Chiêu Ứng như sau: Ngày 18 tháng 6 năm Tự Đức thứ 4 (16.7.1851), chiếc tàu Bằng Đoàn của triều đình nhà Nguyễn, do Lang trung Tôn Thất Thiều và Suất đội Phạm Xích điều khiển, trên đường tuần tiểu từ Thừa Thiên vào Bình Định, đang đậu ở bến Thị Nại (Quy Nhơn), thì được tin có 3 chiếc tàu khả nghi hạ neo ở đảo Chiêm Dư, thuộc hải phận tỉnh Quảng Ngãi. Chiếc Bằng Đoàn vội trở ra Quảng Ngãi, tới nơi thấy quả có 3 chiếc tàu Trung Hoa thật, liền xả đại bác bắn luôn. 3 chiếc tàu của Trung Hoa sợ quá bỏ chạy về hướng Đông không dám kháng cự. Hai hôm sau thì tàu Bằng Đoàn lại phát hiện một trong 3 chiếc Trung Hoa đã trúng đạn, tàu này hư nặng hạ buồm xin hàng.
Thủy thủ của tàu Bằng Đoàn bắt loa ra lệnh cho hành khách lên tàu quan để khám. 33 người Trung Quốc kéo sang với bộ điệu khúm núm sợ sệt. Họ xuất trình thuyền bài và nói họ là các nhà buôn ở ngay Thừa Thiên và Quảng Ngãi, nay về xứ Hải Nam chứ không phải là giặc biển. Họ còn khai là có biết quan Lang trung Tôn Thất Thiều, nhưng cả viên Lang Trung dòng Tôn Thất và vị Suất đội họ Phạm đều lờ đi. Quan binh khám tàu Trung Hoa, chỉ thấy có hàng hóa mà thôi, không có thứ vũ khí nào. Mặc dầu biết họ là những người lương thiện Tôn Thất Thiều vẫn ra lệnh cho Hiệp quản Lương Cù trói 47 hành khách trên tàu Trung Hoa và giết hết, quẳng xuống nước vào khoảng canh hai. Những người bước qua tàu Bằng Đoàn cũng không thoát chết. Tất cả là 107 nạn nhân, may một kẻ nấp dưới khoang thuyền, nhảy xuống biển trốn được. Bao nhiêu của cải bên tàu người Trung Hoa đều bị tịch thu sạch, rồi chiếc tàu của nạn nhân được sơn đen để trở thành tàu của giặc biển và được lôi về để nêu cao thành tích.
Ngày 27 tháng 6 năm ấy, mấy ông “gian quan” còn dâng biểu lên vua Tự Đức miêu tả chiến công oanh liệt của mình, nhưng vua Tự Đức lấy làm hoài nghi, vì từ trước đến nay chưa bao giờ thủy quân triều Nguyễn chứng tỏ tài cán trong việc chống giữ giặc biển. Vì thế, vua Tự Đức lệnh cho bộ Hình mở cuộc điều tra, chất vấn quân lính của tàu Bằng Đoàn và xem xét hiện trạng của tàu Trung Hoa. Sự gian dối dần dần bị phanh phui. Sau đó viên Đội trưởng Trần Văn Hựu do hối hận về thảm cảnh của những người khách buôn Trung Hoa nên đã khai hết sự thật với bộ Hình. Vụ án kết thúc, Tôn Thất Thiều và Phạm Xích lãnh án lăng trì, 5 người khác bị trảm quyết, vài người liên quan khác bị phạt trượng và bị đày đi 3.000 dặm, một số quan lại bị giáng chức. Tài sản của các thủ phạm bị tịch biên để đền bù cho các nạn nhân. Số hàng hóa bị thu đoạt cũng được trả lại cho quyến thuộc những người xấu số. Từ đó người Hoa gốc Hải Nam thờ 108 vị Chiêu Ứng làm chủ thần và được cúng tế vào ngày rằm tháng 6 hàng năm.
Bà Mụ
Bà Mụ được thờ gian phía đông ở hậu điện của Hội quán Phước Kiến. Đây là nơi “cầu tự” duy nhất ở tại Hội An. Theo quan niệm của người Hoa, Bà Mụ là từ chỉ chung cho 15 vị thánh gồm 3 Bà chúa sanh thai (còn gọi là Sanh Thai nương nương) và 12 Bà Mụ (còn gọi là Thập nhị hoa bà hay Kim Hoa nương nương).
Theo truyền thuyết, Sanh Thai nương nương là 3 bà Bích Tiêu tiên bà, Vân Tiêu tiên bà và Quỳnh Tiêu tiên bà. 3 bà đã được phong thần và “có nhiệm vụ” chuyên lo việc “nặn tạo” bào thai. 12 bà Kim Hoa nương nương thì chuyên lo việc dạy cho đứa trẻ sau khi sinh biết khóc, biết cười, biết ngủ… Công việc của 12 Bà Mụ được phân bổ trong 12 tháng, cho đến ngày đứa trẻ tròn tuổi (thôi nôi) như sau: Mụ bà Vạn Tứ nương coi việc thai nghén (chú thai), Mụ bà Lâm Cửu nương coi việc thụ thai (thủ thai), Mụ bà Lưu Thất nương coi việc nặn hình hài nam, nữ cho đứa bé (chú nam nữ), Mụ bà Lâm Nhất nương coi việc chăm sóc bào thai (an thai), Mụ bà Lý Đại nương coi việc chuyển dạ (chuyển sanh), Mụ bà Trần Tứ nương coi việc sanh đẻ (chú sanh), Mụ bà Hứa Đại nương coi việc khai hoa nở nhụy (hộ sản), Mụ bà Cao Tứ nương coi việc ở cữ (dưỡng sanh), Mụ bà Tăng Ngũ nương coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (bảo tống), Mụ bà Mã Ngũ nương coi việc ẵm bồng con trẻ (tống tử), Mụ bà Trúc Ngũ nương coi việc giữ trẻ (bảo tử), Mụ bà Nguyễn Tam nương coi việc chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ (giám sanh).
Ở hội quán Phúc Kiến, hằng năm đến dịp vía Bà Mụ vào ngày mồng 1 tháng 2 âm lịch, có nhiều người đến dâng hương cầu cúng. Lễ vía Sanh Thai tiên nương – Bà Mụ tại hội quán Phước Kiến thường do Hội Bà trong Nhuận Sanh phổ đứng ra chủ trì tổ chức. Từ việc cúng vía Sanh Thai nương nương tại hội quán Phước Kiến kết hợp với nhiều truyền thuyết liên quan đến Bà Mụ cùng các tục lệ về cầu tự, cầu được bình an trong sinh nở hiện lưu truyền tại địa phương phần nào đã thể hiện sự quan trọng của tục thờ cúng Sanh Thai nương nương – Bà Mụ cùng những vị thần bảo trợ bà mẹ, trẻ em, bảo trợ việc sinh nở trong đời sống tinh thần của người Hoa ở Hội An trước đây cũng như hiện nay.
Thần Tài
Do người Hoa chủ yếu là tầng lớp thương nhân nên Thần Tài được thờ rất phổ biến từ các hội quán đến từng gia đình. Hệ thống thần tài được người Hoa thờ cúng rất đa dạng, với nhiều vị thần chuyên lo ban tài phát lộc, chưởng vạn dân phúc lộc, thông thiên hạ tài nguyên (nắm giữ phúc lộc của vạn dân, làm thông suốt nguồn tài nguyên), gồm: Tài Bạch tinh quân, Phước Đức chánh thần, Ngũ Lộ tài thần, Chiêu Tài đồng tử, Lợi Thị tiên quan, Huyền Đàn Triệu Công Minh nguyên soái…
Ở các hội quán, Thần Tài được thờ trong các khám lớn ở các gian tả hoặc hữu của chánh điện. Khám thờ thần tài ở các nhà thì thường đặt dưới đất, mặt quay theo hướng nhà, bên trong có đặt bài vị ghi tên các vị thần tài, thổ địa như sau: Ngũ phương ngũ thổ long thần, Tiền hậu địa chủ tài thần và hai câu đối: Kim chi sơ phát diệp. Ngân thụ chánh khai hoa. Ngoài ra còn phải đặt hai tượng Thần Tài và Thổ Địa cùng hương hoa, trà rượu. Sở dĩ Thần Tài và Thổ Địa được thờ trong cùng một khám vì dân gian quan niệm rằng: An nhân tự an trạch, hữu thổ thử hữu tài (Yên nhân nghĩa thì nhà tự yên ổn, có đất đai thì mới có tiền tài), hay lại cho rằng đất đai yên ổn thì tài lộc mới nảy sinh: Thổ vượng tài thần vượng, thần an dân tự an (Đất vượng tài mới vượng, thân yên dân tự yên).
Thần Tài được cúng vào những ngày sóc, vọng hàng tháng, lễ tiết trong năm và các ngày vía của Thần Tài, nhưng hầu hết các gia đình đều cúng Thần Tài vào mỗi buổi sáng trước khi bán hàng. Lễ vật dâng cúng thần tài bao gồm hương đèn, hoa quả, thịt quay và những lễ vật khác tùy theo thành tâm của chủ nhà. Ngoài việc cúng tế tại gia, hàng năm vào các dịp lễ tiết lớn, nhất là ngày vía Tài Bạch tinh quân ở các hội quán, người ta còn đến cúng tế cầu tài xin lộc làm ăn, mong muốn buôn mau bán đắt, tài lộc dồi dào.
Ngũ tự gia đường
Người Hoa quan niệm rằng: Nước có vua, nhà có chủ. Chủ nhà trong câu này chính là thần Ngũ tự gia đường, do đó mà hầu như trong tất cả các gia đình người Hoa đều có thờ Ngũ tự gia đường. Đây là một tập tục có thuyền thống lâu đời và đang được duy trì thờ tự. Theo truyền khẩu, người Hoa ở Hội An cho rằng Ngũ tự gia đường gồm 5 vị thần cai quản nhà cửa, đất đai, gồm: Định phước Táo quân; Thần Cửa, Thần Cổng; Thần Giếng và Thần Trung lưu (Môn, Hộ, Táo, Tỉnh, Trung lưu thị vi ngũ tự). Đây là 5 vị thần chủ nhà, chưởng quản mọi việc tốt xấu, trừ hung tai, giáng cát tường, chức năng của từng vị như sau:
– Định Phước Táo quân: Là bộ gồm ba Táo gọi chung là Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân, gồm: Thổ công (Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân), Thổ địa (Thổ địa long mạch địa chủ tôn thần) và Thổ kỳ (Ngũ phương ngũ thổ phước đức chánh thần). Ba Táo chuyên lo việc bảo hộ bình an, trừ tai, giáng phước.
– Thần Cửa và Thần Cổng: Theo truyền thuyết của người Hoa thì đây là Nhị vị môn thần với những tên gọi khác nhau như: Thần Đồ – Uất Lũy (hay Thần Thư – Uất Luật), Tần Quỳnh – Uất Trì (hay Tần Thúc Bảo – Uất Trì Cung), Khương Duy – Ngụy Diên. Nhị vị môn thần có nhiệm vụ bảo hộ bình an cho gia chủ, canh giữ không cho tà ma ngoại đạo xâm phạm nội gia viên trạch, thậm chí đến ngày giỗ kỵ những người đã khuất trong gia đình nếu gia chủ không thắp nhang khấn vái xin phép thì những người đó cũng không được phép vào nhà. Các vị thần này không có khám thờ riêng mà chỉ có hai ống cặm nhang treo ở hai bên cổng và cửa ra vào.
– Thần Giếng: Là Long mạch tỉnh thần, quản lý một trong những vấn đề sống còn của con người, đó là nước. Thần còn chủ trì long mạch trong khuôn viên điền thổ, vì vậy khi khai giếng, đào ao phải xem chọn ngày giờ kỹ lưỡng và chọn vị trí phù hợp, nếu không cẩn thận để động đến long mạch thì sẽ tổn hại không nhỏ cho gia chủ.
– Thần Trung lưu: Chính là Đương cảnh thổ địa tôn thần, cai quản đất đai, bảo hộ sự bình an cho gia viên điền trạch. Vì vậy, nếu đất bị động thì bất lợi cho gia chủ, trong nhà có người đau ốm, tiền của tiêu hao. Trong khu phố, các nhà người Hoa thờ thần Trung lưu trên một khám nhỏ (còn gọi là cảnh) đặt giữa sân, trên khám có đặt lư hương và chưng bày hoa quả. Ngoài ra, tại không gian sân trời các nhà người Hoa còn xây một khám thờ bên trong có đặt bài vị Thiên quan Tứ phước, bên ngoài có thêm câu đối: Thiên tứ bình an phước, nhân nghinh phú quý xuân (Trời ban bình an phước, người đặng phú quý xuân). Tuy mỗi vị thần trong Ngũ tự đều có một chỗ thắp hương riêng nhưng ngay trong gian chính của mỗi nhà đều phải đặt một khám thờ chính, mặt quay theo hướng nhà để thờ Ngũ tự gia đường.
Định Phước Táo quân
Như trên đã nêu, Định Phước Táo quân còn gọi Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân là danh hiệu chung của 3 vị Táo quân (Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ). Người Hoa cho rằng đây là vị thần tối cao quan trọng nhất trong hệ thống Ngũ tự gia đường, là vị thần chủ chốt trong một gia đình: Nhất gia chi chủ, Ngũ tự chi thần. Từ xưa đã truyền tụng Tứ thời xuân tại thủ, Ngũ tự táo vi tiên (Bốn mùa xuân trước hết, Ngũ tự Táo đầu tiên), vì vậy mà phải thờ cúng Táo quân chu đáo, thận trọng, không được khinh suất, xem thường. Vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các Táo mang sớ về trời tâu với Thượng Đế việc trần gian trong suốt 1 năm. Ngày đó gọi là tết ông Táo nên mỗi nhà phải sắm sửa lễ vật để tống tiễn. Đến ngày 30 tháng Chạp (tất niên) thì Táo mới quay trở lại nhân gian, mọi nhà cũng phải thành kính nghinh tiếp. Lễ vật cúng Táo quân thường là hương hoa, trà quả, giấy tiền vàng bạc (kim ngân), tranh vẽ Táo quân và bộ đồ ông Táo. Bộ đồ ông Táo chỉ gồm một đôi hia và mão, không có quần áo như những bộ đồ cúng gia tiên.
Qua khảo sát thực địa ở các nhà của người Hoa, chúng tôi thấy hầu hết khám thờ Táo quân đa số quay về hướng tây hoặc hướng nam, hầu như không có trường hợp quay về hướng bắc hoặc hướng đông, điều này có lẽ là họ kế thừa phong thủy truyền thống bao đời của tổ tiên.
chúa Tiên thánh mẫu
Tục thờ Chúa Tiên ở các gia đình cũng khá phổ biến. Nhiều người Hoa cao tuổi cho biết họ thờ Chúa Tiên cũng không ngoài mục đích cầu mong bà bảo hộ sự bình an cho gia chủ: Chúa Tiên thường bảo hộ, gia chủ đắc bình an (Chúa Tiên thường bảo hộ, Gia chủ được bình an). Chúa Tiên thường được thờ trên một khám riêng, bên trong có hình ảnh hoặc bài vị Chúa Tiên thánh mẫu. Ngoài ra, có một số gia đình lại thờ Chúa Tiên chung vào khám thờ Quan Thánh. Chúa Tiên không có ngày cúng nhất định, chỉ phối tế (cúng chung) vào các ngày sóc, vọng, lễ, tết,… Tục tin rằng Quan Thánh đế quân là thần hộ mệnh cho nam giới, thì Chúa Tiên thánh mẫu là thần hộ mệnh cho nữ giới trong mọi gia đình.
Ngoài những vị thần, thánh chủ yếu được thờ tự trên đây, cộng đồng người Hoa ở Hội An còn thờ một số vị thần thánh khác như Huyền Thiên đại đế, Ngũ Hành tiên nương… tại các di tích tín ngưỡng và ở gia đình. Bên cạnh đó, trong quá trình cộng cư sinh sống cùng cộng đồng người Việt họ còn tham gia sinh hoạt tại các đình làng, miếu xóm nên trong quan niệm tín ngưỡng của họ nhất định sẽ ảnh hưởng việc tôn thờ những vị thần theo quan niệm của người Việt như: Thiên Y A Na thánh mẫu, Đại càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương, Thành Hoàng bổn xứ, Nam hải cự tộc ngọc lân tôn thần (Cá Ông), hay chúa Lồi, chúa Lạc…
T.Q.H.
Tài Liệu Tham Khảo:
- 1. Cristoforo Borri. 1998. Xứ Đàng Trong năm 1621. Bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị TPHCM: TPHCM.
- 2. Diệp Truyền Hoa. 1974. Hội An kim tích. Hội An: Trung Hoa hội quán.
- 3. Đỗ Bang. 1996. Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII. Hà Nội: VHTT.
- 4. Li Tana. 1999. Xứ Đàng Trong Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII. TPHCM: Trẻ.
- 5. Lục Tánh Vương Gia chúc văn, thờ tại Hội quán Phước Kiến ở Hội An.
- 6. Lục Tánh Vương Gia tế lễ nghi thức, lưu giữ tại Hội quán Phước Kiến ở Hội An.
- 7. Nguyễn Quốc Hùng. 1995. Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam. Đà Nẵng: Đà Nẵng.
- 8. Phan An. 1990. Chùa Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM: Tổng hợp TPHCM.
- 9. Phan Du. 1974. Quảng Nam qua các thời đại Sài Gòn: Cổ học tùng thư.
- 10. Phan Khoang. 1971. Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777. Sài Gòn: Khai Trí.
- 11. Quan Thánh đế quân chúc văn, lưu giữ tại miếu Quan Công ở Hội An.
- 12. Quảng Triệu hội quán tế tiên hiền nghi thức, lưu giữ tại Hội quán Quảng Triệu ở Hội An.
- 13. Sắc phong Quan Thánh đế quân (KH SP36), lưu giữ tại miếu Quan Công ở Hội An.
- 14. Sắc phong Thiên Hậu thánh mẫu (KH SP42), lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử – Văn hóa Hội An.
- 15. Thiên Hậu thánh mẫu chúc văn, thờ tại Hội quán Phước Kiến ở Hội An.
- 16. Thiên Hậu thánh mẫu linh tích, bản khắc gỗ, thờ tại Hội quán Phước Kiến ở Hội An.
- 17. Thiên Hậu thánh mẫu sử lược giản giới, bản khắc gỗ, thờ tại Hội quán Trung Hoa ở Hội An.
- 18. Thiên Hậu thánh mẫu tế lễ nghi thức, thờ tại Hội quán Phước Kiến ở Hội An.
- 19. Trần Kinh Hòa. 1960. “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An”. Việt Nam khảo cổ tập san. Số 1.
- 20. Trần Kinh Hòa. 1957. “Thập thất thập bát thế kỷ Hội An Đường nhân nhai cập kỳ thương nghiệp”, Tân Á học báo.
- 21. Trần Văn An, Nguyễn Chí Trung, Trần Ánh. 2005. Xã Minh Hương với thương cảng Hội An thế kỷ XVII – XIX. Tam Kỳ: Quảng Nam.
- 22. Triều Châu hội quán tế tiên hiền nghi thức, lưu giữ tại Hội quá Triều Châu ở Hội An.
- 23. UBND thị xã Hội An 1986. Đô thị cổ Hội An. Đà Nẵng: Đà Nẵng.
- 24. Ủy ban quốc gia Hội thảo khoa học quốc tế về Đô thị cổ Hội An 1993. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An. Hà Nội: Khoa học Xã hội.
- 25. Vũ Lang. 1973. Đây Quảng Nam. Đà Nẵng